Ảnh điểm (pixels) là gì?
Hình ảnh mà bạn thấy trên màn hình computer được tạo bởi những phần tử cá thể nhỏ xíu được gọi là ảnh điểm (bắt nguồn từ “những phần tử ảnh”). Mỗi ảnh điểm có một màu duy nhất, được chỉ định như một tỉ lệ nhất định của 3 màu cơ bản Đỏ, Lục và Lam. Bằng cách phối hợp liều lượng khác nhau của 3 màu cơ bản nói trên chúng ta có thể tạo ra gần như bất cứ màu nào. Theo thời gian, phạm vi sử dụng của thuật ngữ “ảnh điểm” đã được mở rộng và hiện nay chúng ta sử dụng thuật ngữ này trong tùy vào từng ngữ cảnh cụ thể. Một ảnh số thường được tạo bởi hàng triệu ảnh điểm cá thể. Đơn vị nhỏ nhất của dữ liệu trong một file ảnh hay trên màn hình computer là một ảnh điểm.
“Megapixel” có nghĩa là gì?
“Megapixel” là một thuật ngữ được sử dụng khi chỉ định số lượng dữ liệu mà một máy ảnh số có thể ghi được. Đơn giản nó chỉ có nghĩa là “1 triệu ảnh điểm” và như thế sẽ thuận tiện hơn trong việc mô tả số lượng ảnh điểm quá lớn. Ví dụ: một máy ảnh 4-megapixel là máy sẽ tạo ra 4 triệu ảnh điểm của dữ liệu ảnh (nói một cách chính xác thì 1 megapixel tương đương 1,048,576 ảnh điểm)
Chất lượng ảnh là gì ?
Khái niệm về chất lượng ảnh rất đa nghĩa, đề cập đến thị giác hay vấn đề kỹ thuật, điều này còn phụ thuộc vào việc cụm từ này được sử dụng trong ngữ cảnh nào. Trong trường hợp các file ảnh số, chất lượng kỹ thuật ảnh là sự kết hợp giữa số lượng ảnh điểm chứa trong hình ảnh với kiểu và tần suất nén dữ liệu được sử dụng để lưu file.
Nhìn chung một file số chứa càng nhiều ảnh điểm thì chất lượng ảnh càng cao bởi vì sẽ có nhiều dữ liệu hơn trong file ảnh đó. Mặc dù vậy, số lượng ảnh điểm cũng chỉ là một yếu tố để xác định chất lượng ảnh. Cách thức nén file cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu trong file ảnh số. Thuật nén tạm chia thành 2 loại không tổn thất/lossless (như định dạng TIFF) và tổn thất/lossy (như định dạng JPEG). Sở dĩ phân chia như vậy là tùy thuộc vào việc phương pháp nén có loại bỏ một vài dữ liệu của file hay không. Việc chúng ta sử dụng phương pháp nén tổn thất, đặc biệt đối với máy ảnh số, sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng ảnh.
Độ phân giải là gì ?
“Độ phân giải” là một thuật ngữ khác được sử dụng trong nhiều trường hợp nhưng nhìn chung nó được dùng để chỉ rõ mức độ chi tiết mà một hình ảnh có thể chứa hay hiển thị được. Chúng ta có thể kiểm soát độ phân giải đầu vào khi quét ảnh, độ phân giải khán thị khi hiển thị hình ảnh trên màn hình máy tính và độ phân giải đầu ra khi chúng ta in ảnh. Chúng ta lựa chọn độ phân giải ảnh tuỳ theo mục đích sử dụng. Ví dụ: những ảnh số dự kiến sử dụng trên Internet thì cần độ phận giải thấp hơn so với ảnh dùng cho mục đích in ấn.
|
Khuôn mặt người thổ dân với nhiều ảnh điểm.
|
Khi quét film hay các bản in, phần mềm máy quét cho phép bạn nhập trị số độ phân giải để kiểm soát mức độ chi tiết của hình ảnh. Thông thường giá trị độ phân giải càng cao thì ảnh quét được càng chi tiết. Tuy nhiên nếu bạn sử dụng một trị số độ phân giải lớn hơn độ phân giải quang học của máy quét, phần mềm buộc phải tạo ra những ảnh điểm nhân tạo (phép nội suy) để đạt đến giá trị độ phân giải cao hơn bình thường và hình ảnh sau cùng trên thực tế có thể sẽ chứa ít chi tiết hơn.
Độ phân giải của màn hình máy tính có thể được tăng hay giảm (thay đổi kích thước ảnh điểm) tạo kết quả lên các thành phần trên màn hình khiến chúng to hơn hay nhỏ hơn tùy theo ý người sử dụng. Khi một hình ảnh trên màn hình được hiển thị ở các độ phân giải màn hình khác nhau thì kích thước thật của hình ảnh sẽ vẫn không thay đổi.
Ví dụ: Một ảnh 800 x 600 pixels sẽ lấp đầy một màn hình được thiết lập độ phân giải 800 x 600. Thế nhưng nếu ta tăng độ phân giải màn hình lên 1600 x 1200, vẫn hình ảnh trên thôi nhưng lúc này nó chỉ được hiển thị trên ¼ màn hình. Lưu ý rằng kích thước thật của ảnh vẫn là 800 x 600 pixels. Khi hình ảnh được in ra bằng máy in để bàn hay máy chuyên nghiệp để đóng sách và tạp chí, độ phận giải đầu ra sẽ xác định kích thước của hình ảnh được in. Ví dụ: một ảnh 1800 x 1800 pixels sẽ tạo ra một kích thước in ấn là 6 x 6 in (152 x 152 mm) nếu được in với độ phân giải đầu ra là 300 dpi. Vẫn ảnh đó sẽ tạo một kích thước in là 12 x 12 in (304 x 304 mm) nếu được in ở độ phân giải 150 dpi nhưng sẽ chỉ 3 x 3 in (76 x 76 mm) nếu in với độ phân giải là 600 dpi.
“dpi” là từ viết tắt của cái gì ?
Thường được đề cập trong trường hợp in ấn các ảnh kỹ thuật số, “dpi” là từ đại diện cho cho cụm từ “dots per in” chỉ rõ mức độ chi tiết mà một ảnh số có thể chứa đựng và hiển thị. Các máy in vi tính xác định chất lượng kết xuất của chúng trên phương diện số lượng chấm mực hay chất màu có thể được in ra trong 1 inch tuyến tính. Theo cách đó, một máy in 1440 dpi chỉ có thể in một số lượng phân nửa chấm mực mỗi inch so với một máy in 2880 dpi. Nói chung, chỉ định dpi càng lớn thì chất lượng ảnh kết xuất từ máy in càng cao. Mặc dù máy in có khả năng in 2880 dpi nhưng để tạo các ra màu độc đáo cho mỗi ảnh điểm đòi hỏi phải dùng đến rất nhiều chấm mực. Do vậy một máy in màu 2880 dpi sử dụng 6 màu mực sẽ in tốt nhất với một file có độ phân giải 360dpi.
Người dịch: Phạm Xuân Bách
Trích dịch từ bản tiếng Anh cuốn “Digital photography problem solver” của tác giả Les Meehan