Đa phần máy ảnh pinhole được chế tạo thủ công cho từng mục đích cụ thể,
chẳng hạn nhiếp ảnh phong cảnh, theo dõi mặt trời trong thời gian dài
(Solargraphy) hay nghiên cứu các tia bức xạ năng lượng cao. Những máy ảnh phim
đã hỏng có thể được tái sử dụng làm máy ảnh pinhole bằng cách thay ống kính bằng
một mảnh bìa mỏng có đục lỗ ở chính giữa. Cùng cơ chế hoạt động tương đối đơn
giản, pinhole camera còn có thể làm từ vỏ hộp các tông, vỏ lon Coke, vỏ hộp
bánh, quả bí ngô...hoặc thậm chí từ một chiếc vỏ tủ lạnh cũ to tướng.
Một pinhole camera tự tạo từ hộp sắt rỗng
Solargraphy
(hay còn gọi là nhiếp ảnh mặt trời) sử dụng máy ảnh pinhole, thường làm từ vỏ
lon thiếc, gắn vào một điểm cố định trong một khoảng thời gian nhất định. Khó
khăn duy nhất mà người chụp cần phải vượt qua là sự kiên nhẫn, khi thời gian
phơi sáng có thể lên đến 6 hoặc 12 tháng.
Nguyên tắc truyền thẳng của ánh sáng
và câu chuyện ra đời của pinhole camera
Hình ảnh được tạo ra trong máy ảnh lỗ
kim - pinhole camera thực chất dựa trên nguyên tắc truyền thẳng của ánh sáng:
bề mặt vật thể phản xạ lại ánh sáng theo tất cả các hướng và khi các tia từ
đỉnh của bề mặt vật thể đi qua lỗ kim sẽ tạo ra hình ảnh đảo ngược của vật thể
trên bề mặt nhạy sáng của phim chụp.
Hiện tượng này thực chất đã được phát hiện từ rất sớm, cũng là tiền thân
đầu tiên của nguyên lí thu hình của các thiết bị chụp ảnh hiện đại. Vào thế kỉ
5 Trước Công nguyên, nhà triết học người Trung Quốc Mặc Tử nhận thấy khi ánh
sáng đi qua lỗ nhỏ trên tường vào phòng tối có thể tạo ra hình ảnh đảo ngược
trên bức tường đối diện. Đến thế kỉ 14 TCN, Aristote một lần nữa đề cập đến
nguyên lý này khi ông miêu tả quan sát nhật thực một phần (năm 330 TCN) bằng
cách nhìn ảnh của Mặt Trời chiếu qua khoảng trống giữa lá cây. Vào thế kỉ thứ
10, học giả người Ả Rập Idn al-Haytham (Alhazen) cũng viết về việc quan sả nhật
thực qua lỗ trống. Ông cũng miêu tả khả năng làm cho hình ảnh rõ nét hơn khi
thu nhỏ lỗ trống.
Hiện tượng ánh sáng
qua lỗ nhỏ chiếu vào buồng tối
Thế kỉ 15 ghi nhận việc sử dụng buồng
tối cho thành tựu hội họa và quan sát của các họa sĩ cùng các nhà khoa
học. Ở dạng sơ khai nhất của nó, buồng tối gồm một căn phòng kín nhỏ với một
cái lỗ nhỏ đặt có tính trước trên tường hoặc trên tấm chắn cửa sổ sao cho ánh
sáng có thể đi qua nó, tạo ra ảnh lộn ngược của vật đặt bên ngoài phòng trên
tường tô trắng đối diện với lỗ nhỏ. Một trong những mô tả sớm nhất của
việc sử dụng buồng tối cho một mục đích như thế có thể tìm thấy trong sổ ghi
chép của Leonardo da Vinci (1452-1519). Khi con người tìm cách thu nhỏ các
buồng tối, nhỏ hơn và dễ di chuyển hơn, hộp tối - camera obscurara
đời.
Công nghệ này tiếp tục được phát
triển nhưng dậm chân trong một thời gian dài do hạn chế của kỹ thuật ghi hình
thời bấy giờ. Mãi tới năm 1850, bức ảnh đầu tiên chụp bằng máy ảnh pinhole mới
được hoàn thiện bởi nhà khoa học người Scotland, Sir David Brewster. Thuật ngữ
chụp ảnh lỗ kim - pinhole cũng được ông này nhắc đến lần đầu
tiên trong cuốn "The Stereoscope" (tạm dịch: Kính lập thể) xuất bản
năm 1856.
Chúc bạn một ngày nhiều ý tưởng sáng
tạo cùng những kiến thức mới về nghệ thuật nhiếp ảnh chụp qua lỗ kim
- Pinhole photography!
Designs.vn